Ngày 23 Tháng 10
Thánh Phaolô TỐNG VIẾT BƯỜNG
Quan thị vệ
(1773 - 1833)


Hiến Lễ Trong Đêm

Thánh Phaolô Tống viết Bường, trường hợp đặc biệt bị xử trảm về đêm. Ngài là viên quan thị vệ có nhiều công trạng với vua Minh Mạng, nên vua muốn cuộc hành h́nh phải diễn ra thật âm thầm, ít người biết đến. Năm giờ chiều, “tử tội” mới được báo tin giờ xử, nhưng chính lúc ấy, ông đội Bường lại coi là một cơ may “có một không hai” cho ḿnh. Trên đường ra pháp trường và buổi chiều cuối tháng mười “chưa cười đă tối” đó, ông t́m cách đi chậm lại, và nói với đám lư h́nh (trước vốn thuộc quyền ông): “Các chú đi chi mà nhanh rứa, tôi biết đường mà, không sợ lạc mô”. Và thực ra, trời th́ tối, cầu th́ hẹp, lại đúng lúc nước sông dâng lên, nên đường rất khó đi. Đàng khác, ông Bường chủ ư t́m hướng đến nền cũ của nhà thờ Thợ Đúc, xin được chết tại đây. Quan đồng ư ban cho ông như lời ước nguyện. Chính nơi đây, đă từng bao năm tháng, dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến, các tín hữu tụ họp dâng lên hiến lễ tối cao là Đức Giêsu, th́ lúc này dưới ánh sáng của những ngọn đuốc bừng cháy, ông đội cũng dâng lên Chúa chính mạng sống ḿnh. Cho đến ngày nay, ông vẫn sống măi trong tâm thức của mọi tín hữu Thợ Đúc, cũng như Giáo hội Việt Nam.

Giă Từ Quan Trường v́ Đức Tin

Phaolô Tống viết Bường sinh khoảng năm 1773 tại Phủ Cam, Phú Xuân (Huế), trong một ḍng tộc Công giáo lâu đời, cũng là ḍng tộc có nhiều quan lớn, dưới triều vua Lê chúa Nguyễn. Thân sinh là ông Nicolas Tống viết Giảng và bà Maria Lương. V́ tổ tiên đều làm quan, nên đến khi trưởng thành, anh được chọn làm lính thị vệ. Với đời sống liêm khiết và đức độ, sau một thời gian, ông được thăng chức đội, và được nhà Nguyễn tuyển vào làm thị vệ hoàng cung. Vua Minh Mạng rất hài ḷng về việc phục vụ cần mẫn và nhiệt tâm của ông. Ông có hai đời vợ, sinh hạ được tất cả mười hai người con.

Vào năm 1831, giặc Đá Vách ở Quảng Nam nổi lên quấy phá, quan quân phải đi đánh dẹp. Ông đội Bường được vua cử đi thanh sát mặt trận. Ông mau mắn chu toàn phận sự, và trở về tâu tŕnh thành quả đă đạt được. Nhưng có lẽ trong thời gian đó, có người ghen ghét tố cáo ông theo đạo Công giáo nên vua hạch hỏi ông: “Khi xong công tác, khanh có viếng chùa Non Nước không?”. Ông b́nh tĩnh trả lời: “Muôn tâu, v́ hoàng thượng không truyền nên thần không đi. Hơn nữa, chùa Non Nước đâu có giặc để đánh”. Vua hỏi tiếp: “Lệ thường, dẹp giặc xong rồi th́ phải vô chùa lễ bái, tại sao khanh không đi”. Ông không ngần ngại trả lời: “Vị hạ thần theo đạo Công giáo”.

Thế là ông đội Bường đă phải trả giá cho lời tuyên xưng niềm tin của ḿnh. Vua Minh Mạng thịnh nộ trách mắng thậm tệ và dọa đem đi chém đầu. Một số quan chức có cảm t́nh với ông đội, đứng ra can gián, nhà vua vẫn chưa nguôi giận, cho lệnh đánh ông tám mươi roi, tước hết chức quyền, và giáng xuống làm lính trơn. Dù vậy, ông Bường vẫn vui vẻ tiếp tục phục vụ nhà vua.

Vẹn Chữ Trung Với Chúa

Hơn một năm sau, khoảng cuối tháng 12.1832, khi chuẩn bị ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc vua Minh Mạng đ̣i kê khai những người Công giáo trong hàng ngũ thị vệ. Lúc đó các quan mới phát hiện ra nhiều thị vệ nghe lời “quyến rũ” của ông đội Bường vừa gia nhập đạo. Thế là ông Bường và mười một binh sĩ khác có tên trong danh sách được tŕnh lên. Năm người sợ quá bỏ đạo, c̣n bảy người vua hạ lệnh tống giam vào một ngục tối tăm hôi hám tại trấn phủ. Mỗi người phải đeo gông nặng gần bảy kư, chân th́ bị xiềng sắt xiết chặt.

Thời gian đầu, cứ độ mười ngày một lần, ông Bường lại bị đem ra tra khảo về niềm tin. Lần nào quan cũng hỏi: “Có bỏ đạo không?”. Và lần nào ông cũng trả lời: “Lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vật, lẽ nào bây giờ tôi lại bỏ Chúa tôi?”. Hậu quả mỗi lần thưa như vậy là hai mươi đ̣n rách da xé thịt, nhưng người chiến sĩ của Chúa không than trách một lời. Với chí khí một người lính kiên cường, ông tỏ ra sẵn sàng chịu những h́nh khổ cay nghiệt hơn nữa. Có lần ông nói với bạn hữu đến thăm rằng: “Kiếm cho tôi cái ǵ nặng hơn chứ gông xiếng tôi c̣n nhẹ. Người ta c̣n đánh đập tôi ít quá, tôi tưởng được chịu đ̣n nhiều hơn nữa kia”.

Bốn lần quân lính khiêng qua thập giá, ông đều mạnh mẽ chống cự đến cùng. Lần kia, quan bắt lính kéo chân ông chạm vào thập giá, ông phản đối: “Việc này do quan làm, chứ tôi không bao giờ làm như thế”. Quan tức giận truyền đánh tàn nhẫn hơn mọi lần khác.

Đàn áp không được, các quan quay qua dụ dỗ. Quan H́nh Bộ Thượng Thơ Vơ xuân Cần tha thiết khuyên ông chiều theo ư vua “bỏ đạo lúc này thôi rồi sau sẽ hay, muốn làm ǵ th́ làm”. Nhưng ông trả lời: “Quan lớn có ḷng thương th́ tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ trung với Chúa Trời”.

Trong nhà giam, ông thường khuyên các bạn bị bắt hăy kiên tâm bền chí, trông cậy và cầu nguyện Đức Mẹ luôn, để được vững ḷng chịu khó đến cùng, vác thập giá theo Chúa Giêsu. Càng bị đau khổ, đời sống thiêng liêng của ông càng gia tăng. Mỗi ngày ông siêng năng cầu nguyện, suy gẫm và đọc kinh Mân Côi. Mỗi tháng nhờ các linh mục cải trang vào thăm, ông đều xưng tội và đón nhận Ḿnh Thánh Chúa. Hai linh mục An và Vững thay nhau vào khích lệ ông. Thừa sai Jaccard Phan cũng gởi thư an ủi động viên ông. Một lần, ông sáng tác được một bài thơ gởi cha An, biểu lộ ḷng trung kiên sắt đá, coi mọi khổ đau là “niềm vui trong Chúa”.

Đường Về Trời

Thấy không thể lay chuyển đức tin của người môn đệ Chúa Kitô, quan thượng thơ bộ h́nh liền xin nhà vua tuyên án. Vua trả lời: “Cần ǵ bản án, cứ việc tra tấn không ngừng, nếu nó không chịu đạp lên thập tự, th́ cứ việc đánh cho chết, rồi vất ra ngoài thành là xong”.

Lần thứ hai các quan tâu lại, vua Minh Mạng mới chấp thuận châu phê bản án trảm quyết, treo đầu ba ngày để làm gương cho kẻ khác. Tuy nhiên vua vẫn chưa cho thi hành ngay, có ư chờ “người tôi trung” của ḿnh xin ân xá. Các quan nói ư vua cho đội Bường, nhưng ông quyết liệt từ chối.

Thế là ngày 23.10.1833, lúc năm giờ chiều quân lính báo tin cho ông đội biết giờ hành xử đă đến. Ông b́nh thản giă từ sáu người bạn cùng bị bắt (cả sáu người này về sau cũng bị tử h́nh), ông nói:

“Xin anh em thêm lời cầu nguyện, để tôi lănh nhận Thánh ư Chúa. Đừng lo cho tôi, anh em hăy luôn đi theo đường lối của Chúa”.

Trên đường ra pháp trường, lấy cớ bị trói và mang gông nặng, ông đội kéo dài thời gian di chuyển, để được chém trên nền nhà thờ Thợ Đúc. Dọc đường, ông gặp mặt con gái, đă về nhà chồng ở họ Thợ Đúc, tuy không nói với nhau lời nào, nhưng trong ánh mắt hai cha con, dạt dào biết bao t́nh cảm xúc động.

Dưới ánh sáng bừng bừng của những ngọn đuốc ông đội được tháo gông, cởi trói và tự do trong ít phút, ông tiến vài bước, b́nh tĩnh đứng nh́n lần cuối cùng những mái nhà thân thương của giáo xứ vây quanh nền nhà thờ hoang tàn. Rồi bước lên chiếc chiếu do một bạn cũ tên Thục ở Phủ Cam đưa cho lính trải. Ông quỳ xuống cầu nguyện giây lát, và ra lệnh cho lính thi hành án xử. Quân lính trói tay ông lại và vung gươm chém rơi đầu người chiến sĩ đức tin kiên cường. Thủ cấp ông bị bêu ba ngày ở nhà thờ Thợ Đúc, c̣n thi hài vị tử đạo được an táng ở họ Phủ Cam.

Ngày 27.5.1900, ông đội Phaolô Tống viết Bường được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước.

ĐTC GPII tuyên phong hiển thánh ngày 19/6/1988.

 

Hiếu Trung, OP